Chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật hôn nhân gia đình 2014
Chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật hôn nhân gia đình 2014
I. Chế độ tài sản theo luật định
1. Nguyên tắc xác định tài sản chung – riêng
Theo chế độ tài sản luật định thì tài sản chung của vợ chồng được xác định bao gồm:
– Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 (hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng); tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
– Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Về sở hữu tài sản chung tồn tại 2 hình thức: sở hữu chung theo phần (xác định được tỷ lệ sở hữu của từng chủ sở hữu) và sở hữu chung hợp nhất (không xác định được tỷ lệ sở hữu đối với từng chủ sở hữu) và tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Đối với tài sản chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên một bên vợ hoặc chồng thì giao dịch liên quan đến tài sản này được thực hiện theo chế định đại diện quy định tại Điều 26; nếu có tranh chấp về tài sản đó thì được giải quyết theo nguyên tắc không chứng minh được tài sản riêng thì được xem là tài sản chung
2. Quy định chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
Nguyên tắc tiên quyết trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung là phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong một số trường hợp nhất định việc thỏa thuận này không chỉ đơn thuần bằng lời nói là đủ mà bắt buộc phải thể hiện dưới hình thức bằng văn bản, đó là những trường hợp liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình, đưa tài sản chung vào kinh doanh.
Trong những trường hợp sau thì vợ chồng phải có nghĩa vụ chung về tài sản (không phụ thuộc vào chủ thể thực hiện là vợ hoặc chồng hay cả hai vợ chồng). Đó là những nghĩa vụ được liệt kê tại Điều 37 bao gồm:
– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
– Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
– Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
3. Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Tuy trong thực tiễn đời sống việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân không được phổ biến vì nó có điều gì đó không được phù hợp với đạo nghĩa vợ chồng cho lắm. Tuy vậy, dưới góc độ pháp luật, nhà làm luật đã trao hoàn toàn quyền thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân. Vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần thậm chí là có thể thỏa thuận chia toàn bộ tài sản bằng một văn bản thỏa thuận phân chia. Như vậy hình thức bắt buộc đối với thỏa thuận phân chia này là phải bằng văn bản (không chấp nhận việc thỏa thuận bằng lời nói), việc có công chứng hay không công chứng là phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng và trong trường hợp pháp luật bắt buộc phải làm việc đó. Vợ chồng có toàn quyền quyết định thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận bằng cách thể hiện trong nội dung của thỏa thuận, nếu trong thỏa thuận không đề cập đến nội dung này thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập thỏa thuận. Riêng trong trường hợp pháp luật có bắt buộc về hình thức khi giao dịch đối với tài sản được thỏa thuận phân chia thì thời điểm có hiệu lực được tính kể từ thời điểm tuân thủ hình thức.
Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy về cơ bản nhà làm luật khuyến khích và tạo ra hành lang pháp lý khá đầy đủ để đảm bảo việc thỏa thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân đảm bảo được thực hiện một cách có hiệu quả theo mong muốn của vợ chồng. Tuy vậy nhà làm luật cũng không khỏi dự liệu những trường hợp thỏa thuận của 2 bên có thể gây ra những bất lợi nhất định cho những thành viên trong gia đình, đối với bên thứ 3 ngay tình, gây thiệt hại cho nhà nước, xã hội. Do đó, nhà làm luật cũng liệt kê cụ thể những trường hợp làm vô hiệu thỏa thuận của vợ chồng, cụ thể nếu việc thỏa thuận:
– Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
– Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ: nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng
Trước tiên chúng ta cần biết rằng tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
Bởi lẽ là tài sản riêng nên vợ, chồng có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung. Nghĩa vụ riêng về tài sản của người nào thì sẽ được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Tuy nhiên, để nhằm đảm bảo lợi ích chung của cả gia đình, trong trường hợp hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này bị giới hạn. Chủ sở hữu không được tự định đoạt mà phải có sự đồng ý của chồng, vợ.
Về vấn đề nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chống cũng được nhà làm luật liệt kê một cách khá cụ thể và chi tiết, cụ thể những nghĩa vụ sau vợ, chồng phải sử dụng tài sản riêng để chịu trách nhiệm thực hiện:
– Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;
– Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37;
– Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;
– Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.
Có một trường hợp khá đặc biệt mà nhà làm luật cũng đã dự liệu đó là trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.
Luật hôn nhân gia đình 2014 vẫn cho phép quyền được nhập tài sản riêng vào tài sản chung, việc nhập này có thể thực hiện thông qua thỏa thuận bằng lời nói trừ khi giao dịch liên quan đến tài sản được nhập bắt buộc phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận nhập tài sản đó phải đảm bảo tuân thủ hình thức nhằm đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận. Sau khi tài sản riêng đã được nhập vào tài sản chung thì nghĩa vụ liên quan đến tài sản đó được thực hiện bằng tài sản chung trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
II. Chế độ tài sản theo thỏa thuận
So với chế độ tài sản theo luật định thì chế định tài sản theo thỏa thuận là một chế định hoàn toàn mới, lần đầu tiên xuất hiện trong hệ thống những Luật hôn nhân và gia đình từ trước đến nay. Do vậy những quy định để áp dụng có phần khắt khe và yêu cầu cao hơn cả về mặt hình thức lẫn nội dung của thỏa thuận. Sự khắt khe này thể hiện rõ trong việc yêu cầu bắt buộc phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và bắt buộc phải thực hiện trước khi kết hôn và chế độ thỏa thuận này bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn. Trong đó nội dung cơ bản của thỏa thuận bắt buộc phải thể hiện được các nội dung về:
– Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
– Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình;
– Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
– Nội dung khác có liên quan.
Một yếu tố cũng hể hiện sự khắt khe nữa về chế độ thỏa thuận này là khi phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định (chế độ thỏa thuận bị tước đi quyền ưu tiên). Chưa hết, khả năng thỏa thuận này bị tuyên bố bị vô hiệu cũng khá cao khi chỉ cần rơi vào một trong các trường hợp quy định tại Điều 50 Luật hôn nhân gia đình 2014:
– Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
– Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32;
– Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.