Thời điểm giao kết hợp đồng dân sự
Đối với giao kết hợp đồng mục đích cuối cùng và hai bên cùng hướng tới đó là giao kết thành công hợp đồng dân sự. Thông thường, nếu các bên không có thỏa thuận khác thì thời điểm giao kết hợp đồng dân sự chính là thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Nghĩa là, kể từ thời điểm đó phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên như trong nội dung hợp đồng.
Pháp luật dân sự Việt Nam quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự tại Điều 400 Bộ luật dân sự 2015:
“1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.”
Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.
Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết.
Hợp đồng cũng mặc nhiên được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghĩa vẫn im lặng và có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. Nghĩa là, sự im lặng không đồng nghĩa với việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong moi trường hợp, mà chỉ đặt ra khi các bên có thỏa thuận về vấn đề này. Và thời điểm giao kết hợp đồng dân sự trong trường hợp các bên thỏa thuận im lặng là sự đồng ý giao kết hợp đồng sẽ được tính tại thời điểm hết hạn trả lời và thời hạn này có thể được ghi trong đề nghị giao kết hợp đồng hoặc ghi vào bản hợp đồng. Việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng của bên được đề nghị phải trong thời hạn mà bên đề nghị đã ấn định trong lời đề nghị, nếu có. Đây là hình thức giao kết hợp đồng bằng hành vi, trong đó các bên thể hiện việc chấp thuận giao kết hợp đồng bằng hành vi đó là gửi trả lời chấp nhận giao kết, thay bằng ký kết hợp đồng bằng văn bản.
Hình thức giao kết của hợp đồng khác nhau, thì thời điểm giao kết hợp đồng cũng được xác định khác nhau.
+ Đối với hình thức giao kết hợp đồng bằng lời nói thì thời điểm này được tính tại thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung hợp đồng.
+ Đối với hợp đồng được giao kết bằng văn bản, thì thời điểm này là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản, không xét đến việc pháp luật yêu cầu hợp đồng phải được công chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc xin phép.
Kết luận: Thời điểm giao kết hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là khác nhau. Trong trường hợp, hợp đồng được giao kết hợp pháp và không có sự thỏa thuận khác hoặc có quy định khác của pháp luật, thì hiệu lực của hợp mới chính là thời điểm giao kết hợp đồng.