Bình luận Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174 BLHS

Bình luận Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174 BLHS

By admin - Tháng Sáu 22, 2018

Bình luận Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174 BLHS 2015

Khi nói đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản là nói đến hành vi chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn gian dối. Thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người phạm tội là đặc điểm nổi bật của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tuy nhiên, thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản không chỉ là dấu hiệu riêng có của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đã có không ít trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chỉ tập trung chứng minh người phạm tội có thủ đoạn gian dối đã vội vã xác định đó là lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà không thấy rằng thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải xảy ra trước hành vi chiếm đoạt tài sản. Cho nên có thể hiểu, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) (được bãi bỏ)
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) (được bãi bỏ)
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) (được bãi bỏ)
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

CẤU THÀNH TỘI PHẠM CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản không xâm hại đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đây là điểm khác biệt giữa tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội cướp, cướp giật, bắt cóc. Trong cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt, vì vậy nếu sau khi chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội bị đuổi bắt mà có hành vi chống trả để tẩu thoát, gây chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tuỳ trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản tin nhầm, tưởng giả là thật mà trao tài sản cho người phạm tội.
Thủ đoạn gian dối được thể hiện bằng những hành vi cụ thể nhằm đánh lừa chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Để lừa được chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản, người phạm tội có nhiều cách khác nhau như: bằng lời nói, giả mạo giấy tờ, giả danh người có chức vụ quyền hạn, giả danh tổ chức… làm cho người chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản vì tưởng giả là thật rồi tự nguyện chuyển giao tài sản cho người phạm tội.
Trong thực tế có nhiều trường hợp người phạm tội cũng có hành vi dùng thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt tài sản nhưng hành vi này đã được BLHS quy định thành tội phạm độc lập thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng khác. Ví dụ: Hành vi gian dối trong việc cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng… để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi phạm tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198, BLHS.
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản luôn xảy ra trước thời điểm có việc giao nhận tài sản giữa người bị hại và người phạm tội. Nếu thủ đoạn gian dối có sau khi người phạm tội nhận được tài sản thì không phải là lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể, thủ đoạn gian dối đó có thể là hành vi che dấu tội phạm hoặc là hành vi phạm tội khác như: lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Người bị hại là người mất cảnh giác, nhẹ dạ, cả tin và không ít người do tham lam, hám lợi nên đã tạo điều kiện cho người phạm tội lừa được. Thông thường, sau khi người phạm tội đã chiếm đoạt tài sản thì người bị hại mới biết mình đã bị lừa.
Dấu hiệu chiếm đoạt trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thể hiện qua việc chuyển dịch tài sản do người khác quản lý thành tài sản của mình bằng thủ đoạn lừa dối. Sự chiếm đoạt được biểu hiện ở hai hình thức cụ thể như sau:

Thứ nhất, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang thuộc sự chiếm hữu của chủ tài sản hoặc thuộc sự quản lý của người quản lý tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Thời điểm nhận được tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản định chiếm đoạt và người bị lừa dối mất khả năng quản lý tài sản đó trên thực tế. Tội phạm được coi là hoàn thành tại thời điểm này.
Thứ hai, nếu tài sản bị chiếm đoạt đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của người phạm tội thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản lẽ ra phải giao đủ, giao đúng chủng loại, số lượng cho người bị lừa dối. Khi người bị lừa dối không thể nhận hoặc nhận nhầm cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ tài sản bị chiếm đoạt và người bị lừa dối đã mất tài sản đó. Tội phạm được coi là hoàn thành tại thời điểm này.

Một đặc điểm nổi bật của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản là khi bị lừa, người bị hại tự nguyện giao tài sản cho người phạm tội và họ cho rằng việc giao tài sản cho người phạm tội như vậy là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, trong thực tiễn có một số trường hợp bị lừa nhưng người bị hại nhận thức được việc giao tài sản đó là việc làm bất hợp pháp, thì người bị lừa vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi giao tài sản (tội đưa hối lộ).
Hậu quả do tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản gây ra cho người bị hại là thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt, không có thiệt hại về thể chất. Khoản 1, Điều 174 BLHS quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện sau mới cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

  • Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
  • Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  • Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

3. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ vì vụ lợi. Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi có tài sản một cách hợp pháp rồi mới có ý định chiếm đoạt tài sản thì không phải là hành vi của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội danh khác tưng ứng như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

4. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể là người từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự. So với quy định trước đây thì hiện tại, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này dù phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Hiện nay, việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn nhiều lúng túng, chưa chính xác, nên việc định tội danh gặp khó khăn hoặc không đúng. Do đó, cần phân biệt sự khác nhau giữa hai tội này. Sự khác nhau giữa hai tội này thể hiện chủ yếu ở các dấu hiệu trong mặt khách quan của tội phạm. Ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối xảy ra trước thời điểm nhận tài sản, trước hành vi chiếm đoạt, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để tiếp cận tài sản rồi chiếm đoạt tài sản đó. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khi đã nhận được tài sản của người khác từ nhiều hình thức hợp pháp như: vay, mượn, thuê… người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc không có khả năng trả lại tài sản do đã sử dụng vào mục đích bất hợp pháp. Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không nhất thiết phải có dấu hiệu đối tượng bỏ trốn như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Ngoài ra, cần phân biệt giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tranh chấp dân sự, kinh tế. Theo đó, Cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định đúng bản chất của các giao dịch dân sự, ký kết hợp đồng kinh tế; xác định ý thức chủ quan của người thực hiện giao dịch, nếu có ý thức chiếm đoạt tài sản ngay từ đầu thì tiến hành xác minh hành vi có cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không; nếu do kinh doanh thua lỗ,  rủi ro trong sản xuất, do thiên tai, cho người khác vay nhưng không trả hoặc có lý do chính đáng khác nên không trả nợ được, người có hành vi vi phạm không có ý định chiếm đoạt tài sản thì chỉ là các tranh chấp về dân sự, kinh tế; tránh tình trạng “hình sự hóa” các quan hệ dân sự, kinh tế.
Nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để phân biệt tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác có dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để phạm tội; với các tranh chấp dân sự, kinh tế.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *