Theo đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 1 cá nhân chỉ được đặt ra khi có đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm:
– Chủ thể: người thực hiện hành vi phải là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 12 BLHS 2015 quy định, theo đó: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”. Theo thông tin bạn cung cấp, bạn đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
– Khách thể: xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Trong trường hợp này là xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người được quy định tại chương XIV BLHS 2015
– Mặt chủ quan: là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Đối với tội danh này, yếu tố “lỗi” được đặt ra phải là lỗi cố ý.
– Mặt khách quan: là những hành vi được diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Trong trường hợp này, người bị hại phải là người từ đủ 13 – dưới 16 tuổi.
2. Về việc khởi tố vụ án hình sự:
Theo Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định:
“1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”
Theo đó, hành vi vi phạm sẽ không bị truy cứu TNHS nếu thuộc khoản 1 điều 155 BLHS. Tuy nhiên, dựa theo thông tin bạn cung cấp, hành vi của bạn đã gây ra hậu quả là làm nạn nhân có thai, trong trường hợp này bạn vẫn bị truy cứu TNHS với khung hình phạt được áp theo khoản 2 điều 155 BLHS 2015.
Như vậy, dù gia đình bạn gái bạn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bạn thì cơ quan điều tra, công tố vẫn có quyền khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi vi phạm của bạn nếu có tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi đến các cơ quan có thẩm quyền.