Quyền rút đơn khởi kiện và vấn đề án phí trong tố tụng dân sự
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, quyền khởi kiện là một quyền quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người khởi kiện có thể quyết định rút lại đơn khởi kiện của mình. Vậy, ai có quyền rút đơn khởi kiện và việc rút đơn này có ảnh hưởng như thế nào đến án phí?
Ai có quyền rút đơn khởi kiện?
Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, người có quyền gửi đơn khởi kiện là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự và có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án. Chính vì vậy, người khởi kiện cũng là người có quyền quyết định có tiếp tục theo đuổi vụ kiện hay không, bao gồm cả quyền rút đơn khởi kiện.
Trước hết người gửi đơn khởi kiện phải đáp ứng điều kiện nêu tại khoản 2 Điều 189 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Cụ thể:
Người gửi đơn khởi kiện cần có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và trong đơn, mục tên, địa chỉ cư trú người khởi kiện phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người khởi kiện. Người này cũng phải ký tên hoặc điểm chỉ vào phần cuối của đơn khởi kiện; Người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Người đại diện tự mình hoặc nhờ người khác làm đơn khởi kiện.
Rút đơn khởi kiện có được lấy lại án phí không?
Việc được hoàn trả án phí khi rút đơn khởi kiện phụ thuộc vào thời điểm rút đơn và quy định của pháp luật. Cụ thể:
- Khi tiếp nhận, xử lý đơn khởi kiện: Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện khi người khởi kiện rút đơn khởi kiện theo điểm g khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Trong trường hợp này, do chưa phải thời điểm các bên phải nộp tạm ứng án phí, do tạm ứng án phí được nộp khi Thẩm phán thụ lý vụ án – căn cứ Điều 195 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nên nguyên đơn rút đơn trong trường hợp này không mất án phí.
- Khi vụ án đang được giải quyết: Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện, nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt theo quy định tại khoản 4 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Trong trường hợp này, căn cứ khoản 2 Điều 215 Bộ luật Tố tụng dân sự, do vụ án bị đình chỉ giải quyết nên tiền tạm ứng trước đó sẽ được gửi tại Kho bạc Nhà nước và được xử lý khi Toà án tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
- Khi đưa vụ án ra xét xử: Nếu người khởi kiện rút đơn tại phiên tòa, việc hoàn trả án phí sẽ phụ thuộc vào quyết định của Hội đồng xét xử. Theo khoản 3 Điều 18 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, tiền tạm ứng án phí sẽ được trả lại cho người đã nộp, các đương sự không phải nộp án phí dân sự.
- Tại phiên tòa phúc thẩm: Khi khai mạc phiên toà, nếu nguyên đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện và được Hội đồng xét xử chấp nhận do đương sự rút yêu cầu một cách tự nguyện thì Hội đồng xét xử sẽ đình chỉ xét xử với phần yêu cầu đã rút theo quy định tại khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Trong trường hợp này, theo khoản 3 Điều 18 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, tiền tạm ứng án phí sẽ được trả lại cho người đã nộp, các đương sự không phải nộp án phí dân sự.
Quyền rút đơn khởi kiện là một quyền của người khởi kiện, thể hiện sự tự chủ của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp. Việc được hoàn trả án phí khi rút đơn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm thời điểm rút đơn, giai đoạn tố tụng và quy định của pháp luật.