Chế độ dưỡng sức sau khi sinh: Thời gian, mức hưởng, thủ tục hưởng mới nhất năm 2019. Các quy định mới nhất về chế độ nghỉ dưỡng sức sau khi sinh và các vấn đề cần lưu ý năm 2019.
Chế độ thai sản là chế độ thể hiện trách nhiệm của nhà nước đối với người lao động. Với ý nghĩa bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi có thai, sinh con, nhận nuôi con sơ sinh. Việc quy định chế độ thai sản nhằm giúp người lao động phục hồi sức khỏe sau sinh hay nhận nuôi con. Đồng thời, nó còn là một khoản trợ cấp nhằm trợ giúp cho người lao động góp phần bảo đảm cân bằng về thu nhập và ổn định sức khỏe của người lao động. Thông qua chế độ thai sản, chức năng làm mẹ của lao động nữ được nhà nước quan tâm và bảo đảm thực hiện.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào sau sinh, người lao động cũng có đủ sức khỏe để đi làm ngay. Để khắc phục vấn đề này, nhà làm luật đã có những quy định về chế độ dưỡng sức sau sinh của người lao động, tạo điều kiện cho người lao động có đầy đủ sức khỏe trước khi làm việc. Bài viết của chúng tôi sẽ phân tích kĩ hơn về thời gian, mức hưởng, thủ tục hưởng chế độ dưỡng sức sau sinh như sau:
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định về dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản như sau:
“1. Lao động nữ ngay sau thời gian hưởng chế độ thai sản quy định tại Điều 33, khoản 1 hoặc khoản 3 Điều 34 của Luật này, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày.
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.”
Điều đó cũng có nghĩa rằng, khi hết thời hạn hưởng chế độ thai sản, trong 30 ngày đầu đi làm, nếu sức khỏe của người lao động chưa đủ để tiếp tục làm việc thì người lao động nộp hồ sơ đến người sử dụng lao động đề nghị hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau sinh. Một cuộc khảo sát gần đây trên lamchame.vn với số lượng 2,491 người cho thấy, sau khi sinh con, hầu hết các bà mẹ cảm thấy sức khỏe giảm sút, điều đó cho thấy rằng, sau khi sinh con, sức khỏe của phụ nữ bị suy giảm rất nhiều. Thực tiễn cho thấy, có nhiều phụ nữ nhanh phục hồi sức khỏe sau sinh và có đủ điều kiện về sức khỏe làm việc khi hết thời gian nghỉ thai sản, tuy nhiên, có nhiều phụ nữ, sau khi nghỉ hết chế độ thai sản sức khỏe vẫn chưa phục hồi hẳn và không đủ sức khỏe làm việc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng giải thích lý do tại sao nhà làm luật lại quy định chế độ dưỡng sức sau sinh.
Thứ nhất, thời gian hưởng dưỡng sức sau sinh:
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định về thời gian hưởng chế độ dưỡng sức sau sinh, theo đó số ngày nghỉ dưỡng sức sau sinh được quy định tại Khoản 1 Điều 41 do người sử dụng lao động và ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử dụng chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do người sử dụng lao động quyết định, thời gian dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định cụ thể như sau:
+ Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;
+ Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;
+ Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác.
Đối với trường hợp, người lao động nghỉ hết 6 tháng thai sản, không quay lại làm việc mà nghỉ tiếp 5 ngày làm việc thì sẽ không được hưởng chế độ dưỡng sức những ngày đó. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều công ty vẫn giải quyết chế độ dưỡng sức sau sinh trong trường hợp này. Vì vậy, nếu người sử dụng lao động và Ban chấp hành công đoàn cơ sở đồng ý thì những ngày nghỉ của người lao động được nghỉ dưỡng sức và được cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả.
Thứ hai, mức hưởng chế độ dưỡng sức sau sinh:
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 41 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 có quy định như sau:
“Mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày bằng 30% mức lương cơ sở.”
Như vậy, tùy vào thời gian nghỉ chế độ thai sản của người lao động mà 5 ngày, 7 ngày hay 10 ngày mà mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau sinh sẽ khác nhau. Căn cứ theo Nghị định số 72/2018/NĐ-CP quy định về mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang có quy định về mức lương cơ sở. Theo đó, mức lương cơ sở tính từ ngày 01/07/2018 là 1.390.000 đồng/tháng.
Trên cơ sở đó, chúng tôi xin được đưa ra công thức tính mức hưởng dưỡng sức sau sinh như sau:
Mức hưởng dưỡng sức sau sinh = thời gian nghỉ dưỡng sức x 1.390.000 x 30%
Thứ ba, thủ tục hưởng dưỡng sức sau sinh:
Căn cứ theo Điều 10 Quyết định 636/QĐ-BHXH năm 2016 quy định về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội có ghi nhận về hồ sơ hưởng chế độ dưỡng sức sau sinh như sau:
“Danh sách theo mẫu C70a-HD do người sử dụng lao động lập (bản chính)”.
Theo quy định trên,khi người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ dưỡng sức thì người sử dụng lao động lập mẫu C70a-HD để giải quyết chế độ này và người lao động không cần nộp thêm giấy tờ khác.
Về thủ tục giải quyết chế độ dưỡng sức sau sinh được quy định tại Điều 103 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định như sau:
“1. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản, người sử dụng lao động lập danh sách và nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
2. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định, cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giải quyết và tổ chức chi trả cho người lao động; trường hợp không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.”
Như vậy, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp dưỡng sức sau sinh thì người sử dụng lập danh sách và nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội. Hồ sơ này sẽ được cơ quan bảo hiểm giải quyết trong 10 ngày tiếp theo.
Chế độ nghỉ dưỡng sức sau sinh là một chính sách an sinh xã hội và thể hiện tính nhân văn của nhà nước đối với lao động nữ sau khi sinh con mà chưa đủ sức khỏe để tiếp tục làm việc. Việc nhà làm luật quy định về chế độ dưỡng sức sau sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao vai trò của người phụ nữ, bởi họ không chỉ làm tốt công việc xây dựng kinh tế của gia đình mà họ còn phải thực hiện chức năng sinh đẻ – một trong những chức năng quan trọng của người phụ nữ trong xã hội. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xã hội, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa lao động nam với lao động nữ.