Các trường hợp Xóa án tích theo quy định pháp luật hiện hành
Các trường hợp Xóa án tích theo quy định của BLHS 2015
Chế định xóa án tích được quy định trong pháp luật hình sự xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam và nhằm khuyến khích người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh bản án và tuân thủ pháp luật sau khi đã chấp hành xong bản án. Khi đó, họ thực sự trở thành người có ích cho xã hội.
Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Khi một người được xóa án tích phạm tội mới thì Tòa án không được căn cứ vào tiền án đã được xóa án tích để xác định là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm nữa. Cụ thể, theo BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì có 05 trường hợp người phạm tội được xóa án tích:
1. Không có án tích: (Điều 69 BLHS 2015)
Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt thì không bị coi là có án tích (Khoản 2 Điều 69 BLHS 2015).
2. Đương nhiên xóa án tích (Điều 70)
Đương nhiên được xóa án tích nếu không phạm tội mới được áp dụng đối với người bị kết án nếu không phải về các tội: Xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XIII) và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (Chương XXVI) của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 70 của BLHS.
– Thời hạn đương nhiên xóa án tích: Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không phạm tội mới trong thời hạn:
+ 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo.
+ 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm.
+ 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 05 năm đến 15 năm.
+ 05 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Nếu người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung (trừ thời hạn đối với hình phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng được giảm án).
– Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành án, người đó không phạm tội mới trong thời hạn nêu trên.
Như vậy, đương nhiên xóa án tích là trường hợp xóa án tích mà không cần xem xét quyết định của Tòa án . Đây cũng là trường hợp thông thường của việc xóa án tích. Đương nhiên xóa án tích được được áp dụng đối với tất cả người bị kết án, trừ trường hợp người bị kết án về các tội phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh khi người này chấp hành xong hình phạt chính, thời hạn thử thách của án treo và đáp ứng các điều kiện ở 2 trường hợp là: trường hợp khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thủ thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới, trường hợp từ khi hết thời hiệu thi hành án người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn tương ứng ở trên.
3. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án (Điều 71)
Được áp dụng đối với người bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện:
– Tòa án quyết định xóa án tích căn cứ vào tính chất tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án.
Thời hạn xóa án tích theo quyết định của Tòa án được xác định là từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn:
– 03 năm nếu bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 05 năm.
– 05 năm nếu bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm.
– 07 năm nếu bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.
Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn trên thì thời hạn được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.
– Khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn nêu trên.
Đối với trường hợp người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm mới được xin xóa án tích; bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì sau 02 năm mới được xin xóa án tích.
Như vậy, quy định về xóa án tích theo quyết định của Tòa án là trường hợp được xóa án tích trên cơ sở quyết định của Tòa án. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án chỉ đặt ra đối với những người bị kết án về một trong các tội được quy định tại chương XIII và chương XXVI. Đây là những tội phạm đặc biệt nguy hiểm, cần thiết phải có những quy định chặt chẽ về việc xóa án tích. Khi xem xét có xóa án tích hay không, Tòa án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án.
4. Xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72)
Người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
Như vậy, xóa án tích trong trường hợp đặc biệt là xóa án tích do Tòa án quyết định nhưng ở thời điểm sớm hơn khi thỏa mãn các điều kiện đặc biệt. Quy định về xóa án tích trong trường hợp đặc biệt có thể áp dụng đối với các đối tượng thuộc phạ vi áp dụng Điều 70 BLHS năm 2015 và Điều 71 BLHS năm 2015 đương nhiên xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án.
5. Xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi (Điều 107)
Theo quy định tại Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
– Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, cụ thể: (Khoản 7 Điều 91 Bộ luật này quy định: Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm).
– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý.
– Người bị áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xoá án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới.