Đây là một tội mới được quy định trong mục 3 Bộ luật Hình sự năm 2015: Các tội khác xâm phạm an toàn công cộng. Cưỡng bức lao động ở đây là cưỡng bức giá trị sức lao động của người lao động, tức là bản chất của hành vi cưỡng bức lao động mặc dù nạn nhân là người lao động nhưng mục đích chính là nhắm vào sức lao động của người lao động nhưng không loại trừ các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe nếu xảy ra. Tội phạm này có các dấu hiệu pháp lý sau:
1. Khách thể của tội phạm
Tội phạm này xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của người khác, mà cụ thể ở đây là người lao động.
2. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là bất kì ai đạt độ tuổi luật định và có năng lực trách nhiệm hình sự. Mặc dù, khi nhắn đến quan hệ lao động, thông thường người lao động bị cưỡng bức bởi chủ sử dụng lao động trong việc thực hiện các nhiệm vụ, công việc lao động. Nhưng điều luật này không bó hẹp phạm vi chỉ người sử dụng lao động mới có thể trở thành chủ thể thực hiện tội cưỡng bức lao động, mà còn có thể là những người khác có liên quan đến quan hệ lao động này ví dụ như người quản lý, người được chủ sử dụng lao động giao thực hiện các công việc tại cơ sở có sử dụng lao động hoặc giữa chính những người lao động với nhau.
3. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi thuộc mặt khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội cưỡng bức lao động là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động. Như vậy, hành vi khách quan của tội phạm này bao gồm 3 dạng hành vi:
– Hành vi dùng vũ lực: Là sử dụng sức mạnh bạo lực thông qua các hành vi như đấm, đá, tát, đánh, đập tác động bằng ngoại lực vào cơ thể của nạn nhân. Hành vi dùng vũ lực có thể thể hiện dưới nhiều động tác khác nhau và mục đích chính khi sử dụng vũ lực là nhằm ép người khác phải lao động. Điều này để phân biệt với hành vi dùng vũ lực trong các tội khác như cố ý gây thương tích, cưỡng dâm, hiếp dâm…
– Hành vi đe dọa dùng vũ lực: Là việc sử dụng bạo lực tinh thần thông qua các hành vi, hành động hoặc dưới hình thức không hành động nhằm làm cho người lao động lo sợ rằng hành vi sử dụng bạo lực sẽ diễn ra, từ đó buộc họ phải thực hiện việc lao động mà người cưỡng bức lao động đã ép buộc họ tiến hành.
– Thủ đoạn khác: Là việc sử dụng các thủ đoạn ngoài dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực, ví dụ như các biện pháp ép buộc về tinh thần, ràng buộc về các điều kiện vật chất, công việc khiến cho người lao động phải miễn cưỡng làm việc theo yêu cầu của người cưỡng bức lao động đặt ra.
Hậu quả của tội phạm này không phải là căn cứ duy nhất để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi cưỡng bức lao động. Người thực hiện hành vi vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.
4. Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.