Không tổ chức TAND cấp huyện, hệ thống TAND sẽ được tổ chức lại như thế nào?
By admin - Tháng Ba 5, 2025
Mới đây, Tòa án nhân dân Tối cao đã có Công văn số 52/TANDTC-KHTC ngày 28/02/2025 gửi Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc tham gia ý kiến đối với phương án tổ chức lại Tòa án nhân dân theo Nghị quyết 18-NQ/TW. Theo đó, dự kiến tổ chức lại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trên cơ sở sắp xếp lại các Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay dựa trên nhiều tiêu chí về đặc điểm kinh tế, vị trí địa lý, mật độ dân cư, lượng vụ việc phải giải quyết…
Công văn nêu rõ, thực hiện Kết luận số 126-KL/TW của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025 và Nghị quyết số 01-NQ/ĐU của Hội nghị Ban Thường vụ Đảng ủy Tòa án nhân dân Tối cao về việc tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân Tối cao dự kiến tổ chức lại Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm trên cơ sở sắp xếp lại các Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay căn cứ các tiêu chí sau:
Thứ nhất, về tiêu chí về số lượng vụ việc phải giải quyết:
Đối với khu vực đô thị đặc biệt (TP. Hà Nội và TP. HCM): Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi Tòa án nhân dân sơ thẩm nằm trong khu vực nội thành từ 3.000 vụ/năm trở lên. Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi Tòa án nhân dân sơ thẩm nằm trong khu vực ngoại thành từ 1.000 vụ/năm trở lên.
Đối với khu vực nông thôn đồng bằng: Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi Tòa án nhân dân sơ thẩm từ 800 vụ/năm trở lên.
Đối với khu vực miền núi: Số lượng vụ việc phải giải quyết, xét xử của mỗi Tòa án nhân dân sơ thẩm từ 200 vụ/năm.
Thứ hai, về tiêu chí về địa bàn thuận tiện, liền kề:
Các Tòa án nhân dân được sáp nhập phải có vị trí địa lý liền kề, giao thông thuận tiện. Mỗi Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc diện sắp xếp sẽ sáp nhập với ít nhất 1 Tòa án nhân dân cấp huyện liền kề thuộc diện sắp xếp hoặc sáp nhập với Tòa án nhân dân cấp huyện liền kề không thuộc diện sắp xếp.
Thứ ba, về tiêu chí về đặc điểm kinh tế, vị trí địa lý, mật độ dân cư, hạ tầng cơ sở giao thông, văn hóa theo từng vùng miền:
Đối với khu vực miền núi: Do khu vực các huyện miền núi thường có diện tích rộng nhưng mật độ dân cư thấp, số lượng vụ việc không nhiều nên nếu chỉ áp dụng tiêu chí về khối lượng công việc phải giải quyết thì địa bàn hoạt động của các Tòa án nhân dân sơ thẩm sẽ quá rộng, gây khó khăn cho người dân khi có công việc đến tòa án.
Vì vậy, cần bổ sung tiêu chí sau: Khoảng cách từ nơi đặt trụ sở Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực đến nơi xa nhất trong địa hạt pháp lý của tòa án đó không quá 50km.
Trường hợp không thể thỏa mãn đồng thời cả hai tiêu chí về số lượng án và khoảng cách từ nơi đặt trụ sở Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực đến nơi xa nhất trong địa hạt pháp lý thì ưu tiên áp dụng tiêu chí về khoảng cách.
Đối với khu vực hải đảo: Không tổ chức Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực tại mỗi huyện đảo mà sẽ bố trí thẩm phán, cán bộ tòa án tại Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực liền kề, có năng lực đủ mạnh đến để tiếp nhân dân, xử lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của người dân và xét xử lưu động các loại vụ án theo lịch định kỳ hàng tháng.
Ngoài ra, ưu tiên các vị trí có trụ sở vừa được đầu tư xây dựng mới trong giai đoạn vừa qua và một số công trình thuộc dự án đầu tư sửa chữa, cải tạo, nâng cấp và xây dựng trụ sở Tòa án nhân dân các cấp (giai đoạn 1).