Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp ngăn chặn

Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về các biện pháp ngăn chặn

By admin - Tháng Sáu 11, 2018

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS) được Quốc hội khóa 13, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 có rất nhiều điểm mới, sửa đổi, bổ sung một cách căn bản và toàn diện so với BLTTHS năm 2003. Trong đó có nhiều điểm mới của BLTTHS 2015 liên quan đến biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Quy định cụ thể hơn về các biện pháp bắt

BLTTHS (Điều 109) năm 2015 đã quy định về các trường hợp bắt bao gồm:

(1) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

(2) Bắt người phạm tội quả tang;

(3) Bắt người đang bị truy nã;

(4) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;

(5) Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Ưu điểm: nhằm bảo đảm tính cụ thể trong cách thức quy định về biện pháp bắt người; đồng thời, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong TTHS.

Thứ hai, sửa đổi chế định bắt khẩn cấp thành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110 BLTTHS 2015)

  1. Khi thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người:
  2. Khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
  3. Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
  4. Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Lệnh giữ người trong trường hợp này thì không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát.

  1. Những người sau đây có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp:
  2. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;
  3. Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
  4. Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan điều tra phải tiến hành các công việc:

+/ Lấy lời khai ngay người bị giữ;

+/ Ra quyết định tạm giữ;

+/ Ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó.

+/ Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho VKS cùng cấp hoặc VKS có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn.

Ưu điểm: Quy định phù hợp với Hiến pháp 2013: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang” (Khoản 2 Điều 20 Hiến pháp 2013).

Thứ ba, bổ sung và quy định chặt chẽ những người có thẩm quyền bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ (Điều 110 và Điều 117):

BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ cho một số chủ thể thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư gắn với tiêu chí “thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn biên giới, hải đảo, xa cơ quan điều tra chuyên trách”, cụ thể gồm:

Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng;

Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật Cảnh sát biển;

Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy Cảnh sát biển;

Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng.

Nhược điểm: Về thời hạn tạm giữ quy định tại Điều 87 BLTTHS, thấy rằng trong điều luật có dùng hai khái niệm “cần thiết” và “đặc biệt”, xét thấy hai trường hợp này luật không quy định rõ nên áp dụng tùy tiện vì thế cần sữa đổi theo hướng như thế nào là cần thiết và khi nào là đặc biệt để áp dụng thống nhất.

Thứ tư, về biện pháp “Tạm hoãn xuất cảnh” theo quy định tại Điều 124 BLTTHS 2015

BLTTHS năm 2015 bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh áp dụng đối với:

  1. a) Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;
  2. b) Bị can, bị cáo. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn bổ sung các biện pháp cưỡng chế (các điều 126, 127, 128, 129 và 130). Trong đó bổ sung thêm biện pháp phong tỏa tài khoản.

Biện pháp “tạm hoãn xuất cảnh” do người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 BLTTHS 2015 (gồm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp) và Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa có thể áp dụng.

Quy định tạm hoãn xuất cảnh của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp phải được thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành.

Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh cũng được quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng, đó là: Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh không được quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS. Thời hạn tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Ưu điểm: Đây là một biện pháp ngăn chặn mới, lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS, phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay khi nhiều trường hợp sau khi thực hiện hành vi phạm tội, trong quá trình xác minh, điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án người phạm tội đã lợi dụng việc xuất cảnh để trốn ra nước ngoài, gây cản trở cho việc xử lý vụ án và thi hành hình phạt.

Bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124), để phúc đáp yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014.

Thứ năm, cụ thể hóa căn cứ tạm giam

BLTTHS 2015 đã cụ thể hóa căn cứ “có hành vi khác cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử” thành “Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này”.

Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (Điều 119 và Điều 173): đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm thì cụ thể hóa căn cứ cản trở điều tra, truy tố, xét xử bằng các căn cứ cụ thể, theo đó, việc tạm giam chỉ có thể được áp dụng khi thuộc các trước hợp sau đây:

(1) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

(2) Không có nơi cứ trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;

(3) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;

(4) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;

(5) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;

(6) Tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án;

(7) Đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Quy định chỉ có thể tạm giam bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 2 năm nhưng bỏ trốn nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Trong giai đoạn điều tra: Rút ngắn thời hạn tạm giam 1 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, BLTTHS 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết thúc điều tra nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này chỉ thuộc Viện trưởng VKSNDTC.

Trong giai đoạn truy tố: Thời hạn tạm giam tối đa đối với bị can về tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng là 30 ngày; tội rất nghiêm trọng là 45 ngày; tội đặc biệt nghiêm trọng là 60 ngày (Lưu ý: không còn được tính thêm 3 ngày giao cáo trạng và các quyết định tố tụng như Điều 166 BLTTHS năm 2003).

Bên cạnh đó, để tháo gỡ những khó khăn trong thực tiễn cần phải tạm giam đối với bị can, bị cáo mặc dù phạm tội ít nghiêm trọng nhưng bỏ trốn thì Khoản 3 Điều 119 BLTTHS 2015 đã cho phép tạm giam đối với bị can, bị cáo về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt dưới 02 năm tù nhưng nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

Ưu điểm: Theo đó, nhằm hạn chế tình trạng lạm dụng việc tạm giam đối với bị can, bị cáo về các tôi ít nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng.

Nhược điểm: Về thẩm quyền bắt bị can, bị cáo để tạm giam quy định tại Điều 80 BLTTHS. Thấy rằng theo quy định hiện hành những biện pháp liên quan đến tạm giam đều phải được phê chuẩn của Viện kiểm sát mới có hiệu lực pháp luật vì thế việc Cơ quan điều tra ra lệnh và quyết định những trường hợp này là không cần thiết, chỉ cần Viện kiểm sát quyết định áp dụng là đủ và đáp ứng với yêu cầu công tố. Vì thế đề nghị sữa đổi điều này theo hướng Viện kiểm sát quyết định việc bắt tạm giam, tạm giam, tạm giữ và gia hạn tạm giữ giao cho Cơ quan  điều tra áp dụng là đủ đáp ứng với điều kiện hiện nay.

Về căn cứ áp dụng tạm giam: Tại Điều 88 có quy định về tạm giam “…1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây…”, quy định trên đây thực chất vẫn là một quy định tùy nghi, việc quyết định áp dụng hay không áp dụng biện pháp tạm giam hoàn toàn phụ thuộc vào sự đánh giá của người tiến hành tố tụng hoặc cơ quan tiến hành tố tụng trong khi sự đánh giá đó nhiều khi mang tính chủ quan, áp đặt. Ví dụ, khi một người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc một tội nghiêm trọng trước khi người này có hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc phạm tội mới thì căn cứ vào đâu để cho rằng người này sẽ thực hiện các hành vi đó để ngay lập tức phải áp dụng biện pháp tạm giam với họ. Như vậy cần phải sửa đổi BLTTHS quy định cụ thể trường hợp nào phải bắt tạm giam, trường hợp nào là không cần thiết tránh sự đánh giá cảm tính không có chứng cứ.

Về thời hạn tạm giam: Thời hạn tam giam để điều tra quy định tại Điều 120 BLTTHS và thời hạn điều tra quy định tại Điều 119 BLTTHS, khi thực hiện trên thực tế và nghiên cứu hai điều luật trên thấy rằng thời hạn điều tra tối đa đối với tội phạm ít nghiêm trọng là 04 tháng nhưng thời hạn tạm giam đối với loại tội phạm này tối đa là 03 tháng. Tương tự, tội phạm nghiêm trọng thời hạn điều tra 08 tháng, thời hạn tạm giam tối đa 06 tháng; tội phạm rất nghiêm trọng thời hạn điều tra tối đa 12 tháng, thời hạn tạm giam tối đa là 09 tháng. Như vậy, ta thấy những quy định này thời hạn điều tra dài hơn thời hạn tạm giam, thực tế nhiều vụ án phức tạp liên quan đến nhiều đối tượng, thực hiện trên nhiều địa bàn, cần nhiều thời gian thu thập chứng cứ, định giá làm cho việc điều tra kéo dài đến khi hết thời hạn tạm giam nhưng vẫn còn thời hạn điều tra, tình trạng này dẫn đến buộc Cơ quan điều tra phải kết thúc điều tra chuyển toàn bộ hồ sơ sang Viện kiểm sát để truy tố, sau đó Viện kiểm sát sẽ quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm kéo dài thời hạn tạm giam. Kiến nghị thay đổi thời hạn tạm giam trên theo hướng “thời hạn tạm giam không được quá thời hạn điều tra, thời hạn gia hạn tạm giam không quá thời hạn gia hạn điều tra”, có như vậy mới phù hợp với thực tiễn. Việc phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp đối với lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam do nhóm người có thẩm quyền quy định ở điểm d khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (điểm a khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015), điều luật không quy định thời hạn Viện kiểm sát xem xét phê chuẩn là bao lâu. Trên thực tế có vụ án đơn giản, tài liệu không nhiều thì Viện kiểm sát có thể xem xét phê chuẩn ngay trong ngày. Song thực tế không ít hồ sơ thu thập đến khi khởi tố, Cơ quan điều tra đề nghị bắt tạm giam có số lượng tài liệu rất lớn, ví dụ hồ sơ các vụ án về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, về tội phạm tham nhũng, Viện kiểm sát đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu tài liệu, xác định căn cứ để xem xét có phê chuẩn hay không, ngoài ra không loại trừ Viện kiểm sát vì lý do nào đó chậm trễ trong việc phê chuẩn dẫn đến bị can trốn, tiêu hủy chứng cứ.

Trường hợp bị can đang bị áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố. Khi Viện kiểm sát có Cáo trạng truy tố chuyển hồ sơ sang Tòa án nhưng Tòa án thấy có thể thay đổi biện pháp tạm giam cho gia đình bảo lĩnh chờ xét xử hoặc trong giai đoạn này bị can, bị cáo bị bệnh cần phải được đưa đi điều trị dài ngày, lãnh đạo Nhà tạm giữ, Trại tạm giam đề xuất với Tòa án cho bảo lĩnh để đưa đi điều trị, Tòa án muốn cho bảo lĩnh thì lại gặp vướng ở chỗ trong 60 biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 05 không có biểu mẫu nào là biểu mẫu thay đổi biện pháp ngăn chặn hoặc biểu mẫu cho Bảo lĩnh nên khi gặp trường hợp này thì phải làm như thế nào, trình tự thực hiện ra sao thì chưa thấy có hướng dẫn.

Thứ sáu, Sửa đổi các quy định về biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú (các điều 121, 122 và 123)

Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm.

Bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam và số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của BLTTHS 2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định về việc đặt tiền để bảo đảm. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

Thời hạn đặt tiền không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định tạiBLTTHS 2015. Thời hạn đặt tiền đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù. Bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ đã cam đoan thì Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm trả lại cho họ số tiền đã đặt.

Người thân thích của bị can, bị cáo được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận cho đặt tiền để bảo đảm phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 122BLTTHS 2015, nếu vi phạm thì số tiền đã đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Khi làm giấy cam đoan, người này được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến bị can, bị cáo.

– Đặt tiền để bảo đảm đối với người bị yêu cầu dẫn độ:

Điều 505 BLTTHS 2015 quy định đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với người bị yêu cầu dẫn độ căn cứ vào tình trạng tài sản của người đó nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của tòa án. Việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với người bị yêu cầu dẫn độ được thực hiện tương tự bị can, bị cáo là người Việt Nam.

Thời hạn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với người này không được quá thời hạn bảo đảm việc xem xét yêu cầu dẫn độ và thời hạn xem xét kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ theo quy định của pháp luật về tương trợ tư pháp.

Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Trong trường hợp bảo lĩnh, nếu người bảo lĩnh là cá nhân thì phải đủ 18 tuổi trở lên, có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý được người bảo lĩnh, phải là người thân của bị can, bị cáo và trong trường hợp này phải có ít nhất hai người; nội dung cam đoan của bị can, bị cáo trong biện pháp nêu trên cũng được quy định cụ thể, chi tiết. Một nội dung quan trọng đó là quy định bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam.

Thời hạn áp dụng các biện pháp nêu trên cũng được quy định đầy đủ hơn, đó là, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử. Thời hạn áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

Ưu điểm: Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, quy định tại Điều 8 BLTTHS năm 2015, mà theo đó, khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết. Đồng thời để khắc phục những hạn chế trên, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản về biện pháp bảo lĩnh, theo hướng hoàn thiện hơn. Biện pháp bảo lĩnh cho thấy vai trò mềm dẻo, linh hoạt trong việc thu hút sự tham gia của gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát và giáo dục, nhằm hướng cho các bị can, bị cáo lầm đường, lỡ bước, có cơ hội được tái hòa nhập xã hội. Biện pháp bảo lĩnh cho thấy ý nghĩa nhân văn sâu sắc của chính sách pháp luật tố tụng hình sự nước ta, thể hiện một tầm nhìn có tâm của nhà làm luật, cũng chính là hành động bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thúc đẩy công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm ngày một hiệu quả hơn. Hướng tới các quyền tự do, dân chủ của con người là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia trên thế giới. Nhà nước cho phép CQTHTT sử dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết, phù hợp với mục đích đề ra nhưng vẫn bảo đảm các quyền cơ bản của công dân.

   Nhược điểm: Tại Điều 123 BLTTHS quy định việc cấm đi khỏi nơi cư trú và thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú, Cơ quan điều tra áp dụng biểu mẫu số 22 ban hành kèm theo Thông tư số 61 ngày 14/12/2017 của Bộ Công an ở giai đoạn điều tra; Viện kiểm sát áp dụng biểu mẫu số 51 ban hành kèm theo Quyết định số 15 ngày 09/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong giai đoạn truy tố và đều có quy định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú ở từng giai đoạn tố tụng. Nhưng trong 60 biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 05  cũng không có biểu mẫu cấm đi khỏi nơi cư trú và nếu trong trường hợp “chế mẫu” để áp dụng mà trong thời hạn điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử vụ án phải bị hoãn phiên tòa hoặc tạm đình chỉ cho bị can hoặc bị cáo bị bệnh cần phải điều trị đến khi sức khỏe bình phục có thể đưa ra xét xử được thì phải thực hiện thế nào trong khi Điều 123 không có quy định được gia hạn thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú.
Một vấn đề nữa là Lệnh cấm đi khởi nơi cư trú của Cơ quan điều tra được áp dụng trong thời hạn điều tra, đến khi kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát, Tòa án có được tiếp tục sử dụng Lệnh này không khi thời hạn ghi trong lệnh vẫn còn, Tòa án có được tiếp tục sử dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cứ trú của Viện kiểm sát trong giai đoạn truy tố không trong khi Lệnh vẫn còn hay từng cơ quan phải ra Lệnh mới ở từng giai đoạn thì chưa được hướng dẫn cụ thể để áp dụng

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *