Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy, về nguyên tắc, khi hôn nhân còn tồn tại thì tài sản chung vẫn còn tồn tại, chế độ tài sản này chỉ chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều cặp vợ chồng muốn được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bởi vợ chồng có mâu thuẫn trong quản lý, sử dụng tài sản chung hoặc bởi vợ chồng mâu thuẫn về tình cảm, song họ không muốn ly hôn nhưng muốn độc lập về tài sản… Vì vậy tại Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
“1. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Trong trường hợp vợ, chồng có yêu cầu thì Tòa án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 của Luật này.”
Trong một số trường hợp, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời hôn nhân ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân sẽ bị vô hiệu như của con chưa thành niên, cond dã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Các trường hợp cụ thể nhằm trốn tránh các nghĩa vụ sau đây:
– Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
– Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
– Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
– Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
– Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
– Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy để đầu tư kinh doanh riêng, giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung, lập văn bản có chứng thực. Nếu không thỏa thuận được thì một bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Sau khi chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung.