MAI PHONG LAWFIRM – Những quy định nhân đạo đối với phụ nữ có thai khi phạm tội
Phụ nữ có thai là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt, vì vậy, với những người phụ nữ đang mang thai phạm tội, pháp luật sẽ dành cho họ những quy định riêng. Mục đích của các hình phạt chỉ thực sự phát huy được tác dụng khi được áp dụng và thi hành đúng lúc, đúng thời điểm, đúng đối tượng. Những quy định này phù hợp với mục đích bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ. Vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay có những quy định nhân đạo đối với người phạm tội là phụ nữ có thai như thế nào?
Thứ nhất, không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai:
Căn cứ tại khoản 2, 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
“2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi…”
Theo quy định trên, phụ nữ có thai sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình. Đối với phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ thì việc thi hành hình phạt tù có lẽ sẽ ít đạt được mục đích của hình phạt, thậm chí là gây hệ lụy, hệ quả ngược lại, có tác động tâm lý tiêu cực tới bà mẹ và trẻ em.
Thứ hai, người phạm tội là phụ nữ có thai được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Căn cứ tại điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “người phạm tội là phụ nữ có thai” do đó, phụ nữ có thai sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Tòa án sẽ căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội để quyết định hình phạt một cách chính xác nhất.
Ngoài ra, nếu người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn (theo khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015).
Đồng thời, theo điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015, phạm tội với phụ nữ có thai là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai khi tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 36 Bộ luật Hình sự 2015, trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, quy định trên không áp dụng đối với phụ nữ mang thai.
Thứ tư, không tạm giam bị can, bị cáo là phụ nữ có thai:
Theo quy định tại khoản 4 Điều 119 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ mang thai có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác. Trừ các trường hợp sau đây thì bị can, bị cáo là phụ nữ có thai vẫn bị tạm giam:
- Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
- Tiếp tục phạm tội;
- Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
- Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
Thứ năm, phụ nữ mang thai được hoãn chấp hành hình phạt tù
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 67 Bộ luật Hình sự 2015, phụ nữ mang thai vẫn bị áp dụng hình phạt tù nhưng được hoãn chấp hành hình phạt tù đến khi con đủ 36 tháng tuổi.
Tuy nhiên, sau khi con đủ 36 tháng, không thể tránh khỏi một số trường hợp người mẹ mang thai tiếp. Vậy đối với người bị kết án là phụ nữ mà sau khi bị kết án họ liên tục có thai và sinh con để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù thì Tòa án có cho họ hoãn chấp hành hình phạt tù không?
Tại Công văn 01/2017/GĐ-TANDTC, Toà án nhận định: “Nếu người bị kết án là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi, không phân biệt họ cố tình có thai và sinh con liên tục để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án phạt tù hay không.”
Như vậy, dù cố tình có thai và sinh con liên tục thì người bị kết án vẫn tiếp tục được hoãn chấp hành án phạt tù. Quy định trên nhằm đảm bảo quyền trẻ em, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Việt Nam. Khi trẻ em được sinh ra, cần được nuôi dưỡng trong gia đình có đầy đủ cha mẹ; đặc biệt là trong 03 năm đầu đời.
Thứ sáu, chế độ ăn của phụ nữ có thai tại cơ sở giam giữ gấp 02 lần tiêu chuẩn bình thường:
Phạm nhân nữ trong thời gian có thai tại trại giam, phụ nữ có thai tại cơ sở giam giữ thì tổng định lượng ăn bằng 02 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường và được hoán đổi theo chỉ định của y sĩ hoặc bác sĩ.
Trường hợp phạm nhân nữ có thai không được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu 03 m2/phạm nhân, được giảm thời gian lao động và được chăm sóc y tế theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Thi hành án hình sự 2019.
Trên đây là những quy định nhân đạo mà pháp luật Việt Nam dành cho người phạm tội là phụ nữ đang mang thai.
Mọi thông tin thắc mắc cần trao đổi liên quan đến các vấn đề trên, xin Quý khách hàng vui lòng liên lạc với Luật Mai Phong để được hướng dẫn chi tiết.
CÔNG TY LUẬT TNHH MAI PHONG
Trụ sở chính: Số nhà 202, Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội
VPGD : Phòng 205 Tòa nhà A6B Khu Đô Thị Mới Nam Trung Yên – Trung Hoà – Cầu Giấy – Hà Nội
Websibte: www.kienthucphapluat.vn
Email:luatsumaiphong@gmail.com
Tel: (024) 62. 810. 711- Fax : (024) 62. 810. 722 – Hotline:097. 420. 6766