Điểm mới của BLHS 2015 về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự

Điểm mới của BLHS 2015 về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự

By admin - Tháng Sáu 11, 2018

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự (Chương V) gồm có 3 điều quy định về hai vấn đề: Một là, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (các điều 27, 28); Hai là, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự (Điều 29).

Nhìn chung, Bộ luật Hình sự năm 2015 kế thừa toàn bộ quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự của Bộ luật Hình sự năm 1999. Điểm mới của chương này là mở rộng thêm trường hợp không áp dụng thời hiệu đối với một số tội (trong đó có tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng). Ngoài ra, Bộ luật còn quy định trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo hướng rõ ràng hơn, chặt chẽ hơn, cụ thể:

So với Điều 25 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 29 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có những thay đổi như sau:

Thứ nhất, tên điều luật được đổi thành “Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự”. Việc đổi tên điều luật này nhằm phù hợp và phản ánh rõ nội dung của điều luật.

Thứ hai, điều luật phân định rõ hai loại căn cứ miễn trách nhiệm hình sự:

(1) căn cứ để đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 29);

(2) căn cứ để có thể được miễn trách nhiệm hình sự (các khoản 2, 3 Điều 29).

Cần lưu ý là theo khoản 1 Điều 25 của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì trường hợp “do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa” là một trong những căn cứ để đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự, nhưng theo Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp này được chuyển thành căn cứ để có thể được miễn trách nhiệm hình sự (điểm a khoản 2 Điều 29), tức là trong trường hợp này, cơ quan tiến hành tố tụng phải cân nhắc, xem xét từng trường hợp cụ thể để quyết định miễn hay không miễn trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo.

Thứ ba, khoản 1 Điều 25 của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định “Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa”. Điều 29 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã kế thừa quy định này nhưng thể hiện lại rõ hơn theo hướng cụ thể hóa khái niệm “do chuyển biến của tình hình” bằng khái niệm “do có sự thay đổi chính sách, pháp luật”, theo đó, trong trường hợp vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, nhưng do có sự thay đổi chính sách, pháp luật mà làm cho hành vi phạm tội đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì người phạm tội sẽ được miễn trách nhiệm hình sự[1].

Sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa có thể là: (1) Bộ luật Hình sự đã phi tội phạm hóa đối với hành vi đó; (2) Tuy hành vi phạm tội vẫn còn quy định trong Bộ luật Hình sự do chưa kịp sửa đổi, bổ sung nhưng pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực đó đã có sự thay đổi dẫn đến hành vi đó không còn bị nghiêm cấm nữa. Việc đưa ra xử lý người có hành vi phạm tội này sẽ không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.

Thứ tư, Bộ luật đã bổ sung thêm 02 căn cứ để có thể được miễn trách nhiệm hình sự, bao gồm:

– Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2 Điều 29);-

– Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3 Điều 29).

Thứ năm, quy định chặt chẽ hơn căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đối với trường hợp người phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát giác. Theo đó, người phạm tội không chỉ tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, mà còn phải là người đã lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt được Nhà nước và xã hội thừa nhận mới được xem xét miễn trách nhiệm hình sự (điểm c khoản 2 Điều 29).

[1] Xem thêm điểm a khoản 1 Điều 29.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *