Sự kiện bất khả kháng là gì ?

Sự kiện bất khả kháng là gì ?

By admin - Tháng Mười 11, 2018

Sự kiện bất khả kháng” là sự kiện này xảy ra không phải do lỗi của bất kỳ bên nào, mà hoàn toàn ngoài ý muốn và các bên không thể dự đoán trước, cũng như không thể tránh và khắc phục được, dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng hoặc đầy đủ nghĩa vụ, bên chịu sự cố này có thể được miễn trừ trách nhiệm của hợp đồng hoặc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng.
Sự kiện bất khả kháng có thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra, như lũ lụt, hỏa hoạn, bão, động đất, sóng thần,… Việc coi các hiện tượng thiên tai có thể là sự kiện bất khả kháng được áp dụng khá thống nhất trong luật pháp và thực tiễn của nhiều nước trên thế giới.
Theo khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra thì bên gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm dân sự BTTH. Thế nhưng với định nghĩa như vậy, khi liên hệ với thực tế trong nhiều trường hợp nhận diện “sự kiện bất khả kháng” là điều không đơn giản. Một sự biến xảy ra phải hội tụ đủ những điều kiện nào mới được coi là “sự kiện bất khả kháng”?
Trong khi đó,  khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 chỉ đặt ra quy định “sự kiện bất khả kháng” liên quan đến phần thời hiệu, cụ thể là để xác định thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự. Tại các điều 294, 295 và 296 Luật Thương mại năm 2005, cũng quy định về “sự kiện bất khả kháng”, theo đó, khi có sự kiện bất khả kháng xảy ra, bên vi phạm hợp đồng phải có sự thông báo ngay cho bên kia về trường hợp miễn trách nhiệm trong một khoảng thời gian thích hợp, nếu không thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại,…
Chính vì khi “sự kiện bất khả kháng” xảy ra thì bên có dấu hiệu có lỗi (hay vi phạm hợp đồng) được hưởng quyền miễn trừ trách nhiệm dân sự (trách nhiệm bồi thường thiệt hại) nên có thể thấy việc xác định một sự kiện nào đó có phải là bất khả kháng hay không là việc rất quan trọng.
Khoản 1 Điều 156 BLDS năm 2015 qui định:“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.Quy định này, thực tế BLDS năm 2005 cũng đã ghi nhận tại khoản 1 Điều 161, nhưng suốt thời gian BLDS năm 2005 có hiệu lực thi hành cho đến khi BLDS năm 2015 thay thế, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng vẫn chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải thích, liệt kê những trường hợp được coi là “sự kiện bất khả kháng”. Chính vì lẽ đó, kết luận trường hợp này là “sự kiện bất khả kháng”; trường hợp kia không thuộc “sự kiện bất khả kháng”, ít nhiều phụ thuộc vào nhận định chủ quan của các bên có liên quan, thậm chí có cả cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp.

Để coi một sự biến là một trường hợp “bất khả kháng”, theo BLDS năm 2015, phải có 03 điều kiện:
Một là, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan”. Sự kiện này có thể là sự kiện tự nhiên như thiên tai, nhưng cũng thể là do con người gây ra như hành động của một người thứ ba. Về tính “khách quan”, trong thực tế giới hạn giữa “khách quan” và “không khách quan” đôi khi rất mỏng manh.
Hai là, đây phải là sự kiện “không thể lường trước được” tại thời điểm giao kết hợp đồng nhưng xảy ra sau thời điểm này. Các bên có thể không lường trước được một sự kiện xảy ra tại thời điểm giao kết. Trong trường hợp như vậy thì chúng ta không áp dụng chế định liên quan đến bất khả kháng.
Ba là, sự việc xảy ra “không thể khắc phục” được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết.
Nhìn chung, vấn đề bất khả kháng còn quy định rất chung chung, thậm chí là khó hiểu cũng như không bao quát được các trường hợp trong thực tế. Điều này sẽ dẫn tới những kết quả xét xử khác nhau của Tòa án với cùng một sự biến pháp lý, bởi nếu xác định đúng là “sự kiện bất khả kháng” thì người gây thiệt hại không phải chịu trách bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật quy định khác.
Như vậy, người có hành vi thuộc trường hợp “sự kiện bất khả kháng” thì hành vi đó không có lỗi tồn tại ở hình thức này hay hay hình thức kia, ở mức độ này hay mức độ khác. Theo qui định của pháp luật không phải chịu trách nhiệm dân sự.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *